cái chết của la hầu la
La Hầu La được xuất gia học đạo lúc 7 tuổi, do đó ý nghĩ, lời nói, hành động còn thô tháo. Phật bảo La Hầu La rằng: “Con hãy về ở tịnh xá Hiền Độ, giữ miệng nhiếp ý, siêng tu giới hạnh”. La Hầu La vâng theo lời Phật về ở tịnh xá Hiền Độ 90 ngày, sám hối
La Hầu. Trong thần thoại Hindu, Rāhu ( Tiếng Phạn: राहु ) (), phiên âm tiếng Việt thành La Hầu, là một con rắn đôi khi nuốt mặt trời hay Mặt Trăng gây ra hiện tượng thiên thực. Vị thần này được miêu tả trong nghệ thuật như là một con rồng không có thân, cưỡi trên
Nếu từ trước đến giờ bạn vẫn quen dùng những câu cảm thán nặng nề, sóng sánh khổ đau để nói tới cái chết, thì sau khi gấp lại cuốn sách Suy Nghĩ Vẩn Vơ Về Cái Chết này, chắc chắn bạn sẽ có suy nghĩ khác đi nhiều đấy.
Cái chết thảm của 'nữ thần bài'. Mỹ Triệu Tô Xuyến với tài tính toán hơn người đã liên tục thắng bạc khi chơi Poker song với cô tiền thưởng không phải là mục đích. Tháng 8/2020, một thi thể phụ nữ cháy đen được phát hiện dưới hầm để xe khu vui chơi ở bang
Nguyên nhân gây chết não. Có rất nhiều nguyên nhân và các yếu tố có thể dẫn đến tình trạng chết não. Dưới đây là những nguyên nhân và yếu tố gây chết não ở người: Uống quá ít nước. Không tập thể dục, vận động ít. Sử dụng quá nhiều rượu bia, các chất kích
dalam pembuatan program komputer algoritma dibuat pada saat. Chứng quả A La Hán lúc 20 tuổi Ví như ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh của đức Phật, mỗi ngày cầm bình bát khất thực, rửa chân ngồi thiền, hành hóa thuyết pháp, khiến chúng sinh nhập Phật tri kiến, chính là mật hạnh. Lại ví như La Hầu La sám hối sửa lỗi, giữ vững thanh tịnh giới hạnh, trở thành đệ nhất mật hạnh trong đệ tử Phật. Hình ảnh Sa di La Hầu La trong Giáo hội Nguyên thủy cho đến ngàn sau vẫn là hình ảnh tuyệt đẹp của một thiên thần bé nhỏ, xuất gia từ lúc ấu thời và cuối cùng cũng đã sánh vai với chư Thánh trên lộ trình giác ngộ giải thoát. Ngài không chỉ mở đường cho chính mình, mà còn mở đường cho vô số chú tiểu bé nhỏ khác trên khắp thế giới, trong mọi thời đại, bước vào vòm trời cao rộng siêu thoát của nếp sống Thiền môn. Ngài là con ruột của thái tử Tất Đạt Đa. Sau khi xuất gia thì La Hầu La là người có quyền thừa kế vương vị của thành Ca Tỳ La. Năm Ngài lên bảy tuổi cũng là lúc đức Phật về thăm lại quê nhà lần đầu tiên, Ngài đã thân hành theo Phật và đức Phật đã giao việc giáo hóa cho Tôn giả Xá Lợi Phất. Để tẩy trừ được thói vương giả, quen chỉ tay năm ngón của La Hầu La nên đức Phật bảo Xá Lợi Phất giao cho La Hầu La công việc hàng ngày quét dọn tinh xá. Một hôm khác, Tôn giả cùng với Xá Lợi Phất vào thành khất thực, có một số thanh niên mất dạy đã bỏ cát cùng với cơm vào trong bình bát, rồi dùng gậy đánh lên đầu của La Hầu La. Nhìn gương mặt bừng bừng tức giận La Hầu La, Tôn giả Xá Lợi Phất ôn tồn khuyên bảo Nếu là đệ tử Phật, người nên có tinh thần nhẫn nhục, không nên cưu hận trong lòng mà thay vào đó nên luyện tập tâm từ bi thương hại cho chúng sanh, vinh nhục khen chê không đáng để chúng ta quan tâm. Đức Phật đã dạy rằng trên thế gian này không có một sức mạnh nào sánh bằng sự nhẫn nhục. Sự việc này sau khi Phật biết Phật đã dạy thêm rằng Này La Hầu La! Người không biết nhẫn nhục không thể thấy Phật, thuận Pháp, gần Tăng, thường bị đọa lạc vào đường dữ. Có nhẫn nhục mới có bình an, mới tiêu trừ được họa hoạn, khai thông trí tuệ. Trí tuệ tối cao là con đẻ của nhẫn nhục. Người có trí tuệ mới thấy được quả báo thâm viễn, khắc phục sân tâm, thường hành tinh tấn, thể hiện chân tinh thần và chân ý nghĩa của Phật pháp hòa hợp với thế tục mà không bị ô nhiễm. Nhẫn nhục là tăng thượng duyên của đạo pháp, giúp hành giả sớm chứng giải thoát. Nhờ vào sự giáo hóa của Phật và Xá Lợi Phất nên La Hầu La dần bỏ được tính nóng nảy của thói vương giả. Duy chỉ có cái tật hay nói dối, bông đùa để nhằm mua vui thì không sửa được. Nhằm giúp La Hầu La sửa tật này, một hôm Phật bảo La Hầu La mang cho Ngài một chậu nước để Phật rửa chân, rửa chân xong, đức Phật bảo Nước này không thể uống được vì đã ô uế. Nước đã ô uế không dùng được, tâm cũng vậy, mang danh xuất gia mà không tinh tấn tu học, không giữ gìn lời nói, lòng tràng đầy ba ô uế thì cũng như chậu nước này vậy. Đã không dùng thì nên bỏ đi. Phật bảo La Hầu La mang chậu nước đi đổ, một lát sau La Hầu La mang chậu không về. Phật nói tiếp Chậu này không dùng được vì mặt chậu bám đầy chất dơ. Chậu dơ không dùng được, thân thể cũng thế, mang danh xuất gia mà không tu giới định huệ, không thanh tịnh thân khẩu ý, mình dính đầy ba độc cấu uế thì có khác gì cái chậu dơ này. Đã không dùng đến thì thà đập bể còn hơn. Phật đá nhẹ vào khiến cái chậu vỡ làm đôi. Hỏi Nhà ngươi có tiếc cái chậu không? Thưa không, vì là chậu dơ, La Hầu La đáp. Này La Hầu La nhà ngươi không tiếc cái chậu dơ như thế nào thì Tăng đoàn không tiếc người dơ như thế ấy. Mang danh xuất gia mà không giữ uy nghiêm, hý ngôn lộng ngữ thì ai mà thương mến nhà ngươi cho được. Sau đó, đức Phật chỉ dẫn con làm sao để suy xét mọi hành động của mình. “Cái gương dùng để làm gì?”, Ngài hỏi. “Bạch Đức Thế Tôn, gương dùng để soi”, La Hầu La đáp. Đức Phật lại dạy “Trong khi chuẩn bị làm điều chi bằng thân, khẩu, ý, con phải quán chiếu hành động này có gây tổn hại cho mình hoặc cho kẻ khác không. Nếu sau khi suy xét, con thấy rằng hành động đó sẽ có hại, thì con đừng làm. Còn nếu con thấy rằng hành động đó có ích lợi cho con và cho kẻ khác, thì con hãy làm”. Từ đó, La Hầu La thề quyết tâm hoán cải, nghiêm trì giới luật, tinh tấn đạo tâm, suốt ngày kín tiếng lặng hơi, quyết luyện mật hạnh. Tu như vậy mấy năm liền mà vẫn không có kết quả, nhưng nhân một hôm chỉ nghe một câu nói của Phật mà thoát nhiên khai ngộ. Hôm ấy đi du hóa Phật nhìn cảnh đẹp xung quanh mà bảo với La Hầu La rằng Hãy nhìn vào cảnh vật sum suê kia rồi sau đó nhìn vào tâm của mình, để xem thử có cái gì đứng yên một chỗ không? Vô thường! Vô thường tất cả! Nên biết như thế mà đừng để tâm chấp trước vướng mắt vào đâu hết. Sau một thời gian chăm chú luyện mật hạnh, câu nói trên đây của Phật như có sấm đập vào màn nhĩ, khiến La Hầu La thấy choáng váng bèn xin đức Phật cho phép về tịnh xá ngồi thiền. Phật du hóa về cho gọi La Hầu La lên bảo Này La Hầu La! Thầy đã chứng được tận cùng của mật hạnh rồi đấy. Giờ đây hãy mở rộng lòng từ bi, dung nạp tất cả chúng sanh vào lòng. Dung nạp tất cả chúng sanh vào lòng thì tội ác dứt trừ. Bờ đại giác đã gần kề. Lúc đó La Hầu La mới 20 tuổi. La Hầu La nhập Niết Bàn Về sự đản sinh và niết bàn của La Hầu La có hai truyền thuyết Một thuyết cho rằng La Hầu La ra đời năm Thái tử Tất Đạt Đa 19 tuổi, thuyết khác cho rằng La Hầu La chào đời năm Thái Tử Tất Đạt Đa 25 tuổi. Về năm Niết Bàn của La Hầu La cũng có hai truyền thuyết. Một thuyết nói La Hầu La Niết bàn trước Phật vài năm, thuyết khác ghi khi Phật Niết Bàn La Hầu La còn quỳ bên Phật. Theo truyền ký Da Du Đà La cùng tuổi với Phật, nhưng niết bàn năm 78 tuổi như thế là trước Phật 2 năm. Còn La Hầu La niết bàn không quá 50 tuổi trước cả Phật và Da Du Đà La. Trong hàng Thánh chúng, La Hầu La là vị tu chứng trẻ nhất, lúc mới 20 tuổi. Đúng là mê nhất kiếp ngộ nhất thời, vừa vâng lời Phật bỏ tính ham chơi của tuổi trẻ, tu chẳng bao lâu La Hầu La liền chứng thánh vị. Lúc còn là chú tiểu và cả lúc đã thọ sa di, La Hầu La biểu thị tính hồn nhiên, thơ ngây, nghịch ngợm của tuổi trẻ ngày xưa. Bởi thế sau khi nghe giáo huấn của Phật và Tôn Giả Xá Lợi Phất, La Hầu La đã dễ dàng loại trừ những trò chơi trêu chọc nghịch ngợm và gia công trau dồi oai nghi tế hạnh, để chứng thánh quả. Người xưa có nói "Hữu hoạn bất tài, hà hoạn vô vị", nghĩa là chỉ sợ không tài, lo gì không có địa vị. Đối với cuộc đời, người có tài đức nếu vì một lý do nào đó không thành công thì cũng thành nhân. Tôn giả La Hầu La nhờ âm thầm bỏ công rèn luyện oai nghi tế hạnh nên đã trở thành vị Mật Hạnh Đệ Nhất ngay lúc tuổi còn trẻ. Trong công tác của giáo đoàn, dù không có những hoạt động sôi nổi như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên... nhưng đã chứng Thánh quả A La Hán, Mật Hạnh đệ nhất, La Hầu La đã có vị thế lâu dài trong hàng Thánh chúng Thập đại đệ tử của Đức Phật.
Đức Phật sau khi giác ngộ đã trở về quy y cho Nàng Gia-du-đà-la, La-hầu-la và hướng dẫn họ tu tập. Vậy vợ con của Thái tử Tất Đạt Đa đã nhập diệt khi nào? Trước hay sau khi đức Phật nhập diệt? Tỳ-kheo ni Gia-du-đà-la, mẫu thân của La-hầu- la nhập diệt vào năm bảy mươi tám tuổi, trước khi đức Phật nhập diệtPhần này nói về sự nhập diệt của Nàng Gia-du-đà-la vợ và tôn giả La-hầu-la Con trai duy nhất của Thái tử Tất Đạt Đa nhập diệt khi nào. Những nhân vật oanh liệt trong Tăng đoàn thuở ấy là Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Đại Ca-diếp, A-nan… còn La-hầu-la thì không, một người nghiêm túc trong mật hạnh trì giới, chỉ im lặng tu tập, im lặng không tranh đua với thế gian. Hoặc là vì La-hầu-la quan hệ đến đức Thế Tôn, nên Ngài đặc biệt hạn chế tôn giả. Chúng ta cũng biết La-hầu-la có tư cách nhu thuận, bẩm chất kiên cường, nhưng chúng ta cũng thấy trong sinh hoạt của một vị Tỳ-kheo Tôn giả không phải là người sôi nổi. Cho nên trong kinh sử không thấy ghi lại những sự tích La-hầu-la nhiệt tình thuyết pháp, hay nghị luận với ngoại đạo. Đúng như lời đức Thế Tôn nói, Tôn giả là người nghiêm túc trong tế hạnh, trong giới luật, là một vị Mật hạnh đệ nhất. La-hầu-la nhập diệt khi nào, cũng như năm tháng đản sanh của Tôn giả, có hai truyền thuyết. Có thuyết nói, thái tử Tất-đạt-đa năm mười chín tuổi hạ sanh La-hầu-la. Có thuyết lại nói đến năm Ngài hai mươi lăm tuổi mới hạ sanh La-hầu-la. Về năm diệt cũng có hai thuyết, một thuyết nói Tôn giả nhập Niết-bàn trước đức Phật vài năm, thuyết khác nói, khi đức Phật nhập Niết-bàn, Tôn giả còn quỳ bên giường. Tuy nhiên, Ấn-Độ là một nước không mấy chú trọng về lịch sử, còn Trung Hoa chúng ta cũng không ít nhà phiên dịch phóng đại và tưởng tượng huyễn hoặc. Những sự tích lặt vặt về cuộc đời đức Thế Tôn và các vị Thánh đệ tử được ghi chép trong kinh điển, thật cũng có ít nhiều cắt xén. Căn cứ theo ký sử có thể khảo cứu qua kinh điển, thì Tỳ-kheo ni Gia-du-đà-la, mẫu thân của La-hầu-La nhập diệt vào năm bảy mươi tám tuổi, và La-hầu-la nhập diệt được kể là sớm hơn. Vào một buổi chiều, mẹ của La -hầu-la đã suy tư đến rất nhiều sự việc. Bà nghĩ Kiều-đàm-di, Liên Hoa Sắc đều đã nhập Niết-bàn, La-hầu-la cũng nhập Niết-bàn. Ta sanh đồng một năm với đức Phật, năm nay ta đã bảy mươi tám tuổi, nghe nói đức Phật sẽ nhập Niết bàn vào năm tám mươi tuổi. Nghĩ đến chuyện ta nhập diệt đồng một lúc với Ngài, tuy hiện tại đối với đức Phật chỉ có pháp tình mà không có tình riêng gì khác, nhưng chuyện ấy là một điều bất kính, chi bằng ta nhập diệt sớm là tốt hơn. Gia-du-đà-la được đức Phật hứa khả, hướng về Phật đảnh lễ cảm tạ xong, bèn hiện thần thông bay lên hư không mà đi. Và đêm đó bà ở trong phòng nhập định Niết-bàn. Căn cứ vào ký sự nhập diệt của Gia-du-đà-la thì La-hầu-la đã nhập diệt trước cả bà và đức Phật. Và theo đó, tính tuổi của Tôn giả không quá sáu mươi. Đại khái Tôn giả chỉ sống trên năm mươi năm là cùng. Đương nhiên, đối với một vị thánh thì xem cái chết, dù sớm hay muộn cũng là chuyện thường. Bỏ sắc thân hư huyễn giả dối này, đem sanh mạng an trụ trong lý thể pháp tánh, chuyện ấy không có gì phải buồn, trái lại đó là một sự hạnh phúc. La-hầu-la vào năm hai mươi tuổi đã khai ngộ chứng quả, cái mục đích tối hậu của đời người đã đạt được thì khi nhập diệt nhất định là an nhiên vi tiếu mà ra đi. La-hầu-la zh羅 睺 羅; si, pi rāhula hán dịch là Phú Chướng, nghĩa là "sự chướng ngại", một trong thập đại đệ tử của Phật. Ông cũng là người con duy nhất của Phật tổ Tất-đạt-đa Cồ-đàm trước khi Phật xuất gia. Mẹ của La-hầu-la là hoàng hậu Gia-du-đa-la si yaśodharā. La-hầu-la được sinh ra năm 608 TCN, khi thái tử Tất-đạt-đa lúc ấy đã 29 tuổi, quyết định rời bỏ gia đình và đi tìm chân lý đích thực. Nhiều người cho rằng đó là hành vi "vô trách nhiệm" đối với một người cha. Tuy nhiên sau này có thể thấy chính Phật là người đích thân dạy dỗ con trai mình trên con đường đạt đạo. Nhờ vậy La-hầu-la đã sớm giác ngộ khi mới ngoài 20 tuổi [1]. La-hầu-la được tôn giả Xá-lợi-phất s śāriputra đưa vào Tăng-già từ lúc bảy tuổi và mất trước Phật, có lẽ khi chưa đến 50 tuổi[2][3] khoảng năm 560 TCN.
Thế Tôn đã xuất hiện ở đời như một nhà giáo dục mang nặng sắc thái đậm chất con người qua nhiều câu chuyện ngụ ngôn, thí dụ nhằm khai mở trí tuệ tự tâm mà chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. La Hầu La được xuất gia học đạo lúc 7 tuổi, do đó ý nghĩ, lời nói, hành động còn thô tháo. Phật bảo La Hầu La rằng “Con hãy về ở tịnh xá Hiền Độ, giữ miệng nhiếp ý, siêng tu giới hạnh”. La Hầu La vâng theo lời Phật về ở tịnh xá Hiền Độ 90 ngày, sám hối ăn năn hành trì ngày đêm không dừng nghỉ. Đức Phật đến thăm và bảo La Hầu La rằng Con hãy bưng chậu nước sạch đến đây để rửa chân cho ta. La Hầu La vâng lời rửa chân cho Phật. Khi rửa chân xong, Phật hỏi La Hầu La Con có thấy nước rửa chân trong chậu kia không? Kính bạch Thế Tôn, con đã thấy nước ấy đã dơ bẩn rồi! Vậy nước ấy có thể dùng để ăn uống, súc miệng hay rửa mặt được không? Kính bạch Thế Tôn, nước ấy không thể dùng xài bình thường được vì đã nhiễm bẩn nhơ đục. Phật dạy tiếp Ngươi là con ta, cháu nội vua Tịnh Phạn, nay đã xuất gia học đạo giác ngộ giải thoát bỏ sự vui sướng tạm bợ ở đời, làm Sa môn Thích tử nếu không siêng năng tinh tấn, giữ thân miệng ý trong sạch thì phải bị phiền não tham, sân, si làm vẫn đục tâm ý, cũng như nước dơ kia không thể dùng được! Vườn tượng minh họa cảnh Phật dạy La Hầu La Nói xong Phật dạy tiếp Con hãy đổ chậu nước dơ kia đi! La Hầu La liền vâng lời làm theo. Phật nói Chậu kia nay đã không còn nước dơ bẩn nữa, vậy có thể dùng để đựng đồ ăn uống được không? Kính bạch Thế Tôn, không thể dùng được vì đã nhiễm bẫn. Phật dạy La Hầu La Con cũng như vậy, tuy làm Sa môn mà không giữ gìn thân miệng ý trong sạch, giống như cái chậu dơ kia, không thể đựng đồ ăn uống được. Nói xong, Phật lấy chân đạp mạnh cái chậu khiến nó chạy lăn tròn, nghiêng ngã qua lại vài lần rồi mới dừng lại. Phật bảo La Hầu La Con bây giờ có còn tiếc cái chậu này không? Kính bạch Thế Tôn, cái chậu rửa chân kia là vật không còn giá trị nữa. Trong thân tâm con, tuy có tiếc rẻ đôi chút nhưng nó không còn làm cho con quyến luyến nữa. Phật bảo La Hầu La Con cũng như vậy, tuy làm Sa môn nhưng không nhất tâm tu hành để thân miệng ý làm não loạn khiến nhiều người buồn phiền, khi chết đọa ba đường dữ, các bậc Hiền thánh không ai thương tiếc giống như cái chậu kia. La Hầu La khi nghe lời Phật dạy, lấy làm hổ thẹn và ăn năn sám hối những lỗi lầm đã phạm phải. Đây là câu chuyện mang đậm chất triết học Phật giáo trong nền văn hóa giáo dục Phật giáo Ấn Độ, thể hiện nhân cách đạo đức sống của một người tu hành vì lợi ích tha nhân. Trong cuộc sống, người thầy giỏi là người khéo léo chỉ dạy tùy theo căn cơ trình độ hiểu biết của mọi người. Đức Phật đã dùng phương tiện thiện xảo bằng cách hỏi đáp để cho La Hầu La phải dùng trí tuệ để soi sáng mới nhận ra bí quyết tu hành. Thế Tôn, trong phương pháp giáo dục của Ngài đối với các đệ tử theo nguyên tắc “khế cơ”, “khế lý”, “khế thời”, vừa “khích lệ”… lại vừa vận dụng các thí dụ với các hình ảnh cụ thể, quen thuộc trong công việc thường ngày để hướng dẫn chỉ dạy cho người nghe thấy được tác hại của nó mà quyết tâm dứt trừ. Hình ảnh nước dơ trong chậu là ẩn dụ cho phiền não tham sân si của mỗi người, nhằm giúp ta quán xét lại chính mình, bởi lỗi lầm phát sinh là do không chánh niệm tỉnh giác trong từng phút giây. Tu là sửa, là gội rửa thân tâm dính mắc vào mọi hiện tượng sự vật rồi sinh ra chấp trước mà thấy có ta người chúng sinh, nên chịu luân hồi sống chết trong vô số kiếp mà không có ngày ra khỏi. Chúng ta thật diễm phúc thay mới được Thế Tôn sử dụng những phương pháp giáo dục rất thực tế, rõ ràng minh bạch, dễ hiểu nhằm thức tỉnh tâm loạn động mà quay lại sống với tâm Phật sáng suốt ngay nơi thân này. Khi các đệ tử của Ngài bị ràng buộc bởi bóng tối vô minh thì Phật dùng ánh sáng trí tuệ để chuyển hóa, khi khổ đau thì dùng hạnh phúc để xóa tan bao phiền muộn. Qua câu chuyện trên, Thế Tôn đã chỉ cho chúng ta một phương pháp giáo dục rất khoa học và nhân bản nhằm đánh thức tiềm năng của mỗi người mà biết cách làm chủ bản thân qua thân, miệng, ý. Thế Tôn đã xuất hiện ở đời như một nhà giáo dục mang nặng sắc thái đậm chất con người qua nhiều câu chuyện ngụ ngôn, thí dụ nhằm khai mở trí tuệ tự tâm mà chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Thích Đạt Ma Phổ Giác
La Hầu La được xuất gia học đạo lúc 7 tuổi, do đó ý nghĩ, lời nói, hành động còn thô tháo. Phật bảo La Hầu La rằng “Con hãy về ở tịnh xá Hiền Độ, giữ miệng nhiếp ý, siêng tu giới hạnh”. La Hầu La vâng theo lời Phật về ở tịnh xá Hiền Độ 90 ngày, sám hối ăn năn hành trì ngày đêm không dừng nghỉ. Đức Phật đến thăm và bảo La Hầu La rằng Con hãy bưng chậu nước sạch đến đây để rửa chân cho ta. La Hầu La vâng lời rửa chân cho Phật. Khi rửa chân xong, Phật hỏi La Hầu La Con có thấy nước rửa chân trong chậu kia không? Kính bạch Thế Tôn, con đã thấy nước ấy đã dơ bẩn rồi! Vậy nước ấy có thể dùng để ăn uống, súc miệng hay rửa mặt được không? Đức Phật hỏi tiếpKính bạch Thế Tôn, nước ấy không thể dùng xài bình thường được vì đã nhiễm bẩn nhơ đục. Phật dạy tiếp Ngươi là con ta, cháu nội vua Tịnh Phạn, nay đã xuất gia học đạo giác ngộ giải thoát bỏ sự vui sướng tạm bợ ở đời, làm Sa môn Thích tử nếu không siêng năng tinh tấn, giữ thân miệng ý trong sạch thì phải bị phiền não tham, sân, si làm vẫn đục tâm ý, cũng như nước dơ kia không thể dùng được! Nói xong Phật dạy tiếp Con hãy đổ chậu nước dơ kia đi! La Hầu La liền vâng lời làm nói Chậu kia nay đã không còn nước dơ bẩn nữa, vậy có thể dùng để đựng đồ ăn uống được không? Kính bạch Thế Tôn, không thể dùng được vì đã nhiễm bẩn. Phật dạy La Hầu La Con cũng như vậy, tuy làm Sa môn mà không giữ gìn thân miệng ý trong sạch, giống như cái chậu dơ kia, không thể đựng đồ ăn uống được. Nói xong, Phật lấy chân đạp mạnh cái chậu khiến nó chạy lăn tròn, nghiêng ngã qua lại vài lần rồi mới dừng lại. Phật bảo La Hầu LaCon bây giờ có còn tiếc cái chậu này không? Kính bạch Thế Tôn, cái chậu rửa chân kia là vật không còn giá trị nữa. Trong thân tâm con, tuy có tiếc rẻ đôi chút nhưng nó không còn làm cho con quyến luyến nữa. Phật bảo La Hầu La Con cũng như vậy, tuy làm Sa môn nhưng không nhất tâm tu hành để thân miệng ý làm não loạn khiến nhiều người buồn phiền, khi chết đọa ba đường dữ, các bậc Hiền thánh không ai thương tiếc giống như cái chậu kia. La Hầu La khi nghe lời Phật dạy, lấy làm hổ thẹn và ăn năn sám hối những lỗi lầm đã phạm phải. Đây là câu chuyện mang đậm chất triết học Phật giáo trong nền văn hóa giáo dục Phật giáo Ấn Độ, thể hiện nhân cách đạo đức sống của một người tu hành vì lợi ích tha nhân. Trong cuộc sống, người thầy giỏi là người khéo léo chỉ dạy tùy theo căn cơ trình độ hiểu biết của mọi người. Đức Phật đã dùng phương tiện thiện xảo bằng cách hỏi đáp để cho La Hầu La phải dùng trí tuệ để soi sáng mới nhận ra bí quyết tu hành. Thế Tôn, trong phương pháp giáo dục của Ngài đối với các đệ tử theo nguyên tắc “khế cơ”, “khế lý”, “khế thời”, vừa “khích lệ”… lại vừa vận dụng các thí dụ với các hình ảnh cụ thể, quen thuộc trong công việc thường ngày để hướng dẫn chỉ dạy cho người nghe thấy được tác hại của nó mà quyết tâm dứt trừ. Hình ảnh nước dơ trong chậu là ẩn dụ cho phiền não tham sân si của mỗi người, nhằm giúp ta quán xét lại chính mình, bởi lỗi lầm phát sinh là do không chánh niệm tỉnh giác trong từng phút giây. Tu là sửa, là gội rửa thân tâm dính mắc vào mọi hiện tượng sự vật rồi sinh ra chấp trước mà thấy có ta người chúng sinh, nên chịu luân hồi sống chết trong vô số kiếp mà không có ngày ra khỏi. Chúng ta thật diễm phúc thay mới được Thế Tôn sử dụng những phương pháp giáo dục rất thực tế, rõ ràng minh bạch, dễ hiểu nhằm thức tỉnh tâm loạn động mà quay lại sống với tâm Phật sáng suốt ngay nơi thân này. Khi các đệ tử của Ngài bị ràng buộc bởi bóng tối vô minh thì Phật dùng ánh sáng trí tuệ để chuyển hóa, khi khổ đau thì dùng hạnh phúc để xóa tan bao phiền muộn. Qua câu chuyện trên, Thế Tôn đã chỉ cho chúng ta một phương pháp giáo dục rất khoa học và nhân bản nhằm đánh thức tiềm năng của mỗi người mà biết cách làm chủ bản thân qua thân, miệng, ý. Thế Tôn đã xuất hiện ở đời như một nhà giáo dục mang nặng sắc thái đậm chất con người qua nhiều câu chuyện ngụ ngôn, thí dụ nhằm khai mở trí tuệ tự tâm mà chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
TÔN GIẢ LA HẦU LA ĐỆ NHẤT MẬT HẠNHPhần 2 Đức La Hầu La là người con duy nhất của đức Phật khi Ngài chưa xuất gia. Con đường tu tập và chứng ngộ của đức La Hầu La khi là con Phật có sung sướng thuận lợi hơn người thường không hay ngược lại? Mời quý vị theo đọc loạt truyện về hạnh của ngài La Hầu La Đệ Nhất Mật Sa di Đầu tiên Đức Thế Tôn ở tạm trong hoàng cung vài ngày, và phen này, trong cung điện vắng bóng cung nữ, chẳng có yến tiệc rượu chè, chỉ có một ngàn vị Tỳ kheo theo Phật. Cung điện hoàng gia tạm thời trở thành Tăng phòng tinh xá. Đức Thế Tôn biết các thầy Tỳ-kheo sơ học, nếu ở lâu trong vương cung, dễ sanh tâm so sánh với lối sống đạm bạc của Tăng đoàn, nên chỉ vài ngày sau, Ngài đưa đại chúng về trụ tại rừng Ni-câu-đà ở cách thành Ca-tỳ-la không ở Ni-câu-đà, nhưng đức Thế Tôn cũng thường về hoàng cung trì bát khất thực hoặc thuyết pháp. Cậu bé La-hầu-la, ngây thơ một cách dễ thương, thân mật nói với Ngài– Phật-đà! Con rất thích được ở chung với nói ấy đã biểu lộ phụ tử tình thâm, đức Thế Tôn cũng trả lời– Rồi cũng có ngày ta cho con sống gần bên nói câu ấy không lâu, quả nhiên La-hầu-la xuất gia theo luôn bên Ngài. Nguyên nhân là vì Da-du-đà-la thường khuyến khích La-hầu-la thêm hoạt bát lanh lẹ, mặc quần áo đẹp cho và bảo con rằng– Con hãy theo phụ thân xin tài sản đi, cha con có những châu báu mà chúng ta chưa được thấy!Đức Phật cho La Hầu La gia tài của mình không phải là tài sản thế gian mà là tài sản xuất thế gian Ngài thu nhận La Hầu La vào tăng đoàn Vua Tịnh Phan Buồn khổ sau đó Vua yêu cầu Đức Phật không cho Phép giới tử xuất gia mà cha mẹ chưa đồng ý trong trường hợp dưới 18 tuổi. Đức Phật nhận đó, La-hầu-la thường chạy theo đức Phật nói– Phật-đà! Cho con gia tài!Một hôm, đang lúc đức Thế Tôn khất thực trở về rừng Ni-câu-đà, Ngài đi trước, La-hầu-la chạy theo sau, chẳng có ai ngăn cản cậu, cậu cứ lẽo đẽo theo sau Phật kêu– Cho con gia tài a! Cho con gia tài a!Da-du-đà-la nhìn thấy đứa con duy nhất đi sau lưng Phật, rất sợ La-hầu-la bị đưa xuất gia, bất giác rơi nước Phật về đến rừng, gọi Xá-lợi-phất đến nói– Xá-lợi-phất! Cậu bé La-hầu-la cứ theo ta xin gia tài, ta không muốn cho y thứ tài sản và hạnh phúc mong manh, ta muốn cho y bảo bối vô giá. Này Xá-lợi-phất! Ông hãy cho y xuất gia, làm Sa-di đầu tiên của Tăng đoàn!Đức Phật nói xong, gọi Mục-kiền-liên cạo tóc cho cậu bé, dạy lễ bái Xá-lợi-phất làm thầy, truyền giới Sa-di cho La-hầu-la, đó là khởi nguyên của chúng vốn là tất cả hoài bảo của bà Da-du đà-la, bây giờ đã gia nhập Tăng đoàn, đó cũng là dụng ý của đức Phật. Khi còn là Thái tử hạ sanh La-hầu-la, Ngài đã rời bỏ ngôi vị ra đi và đắc thành Phật quả, thì vương vị mai sau của nước Ca-tỳ-la-vệ nhất định sẽ về tay chủ trương của đức Phật, để cho một đứa bé con làm chủ cả bàn dân thiên hạ là chuyện không thể được, cho nên thừa cơ hội, Ngài phương tiện cho con xuất xuất gia là một điều đau buồn cho bà Da-du lúc đó chưa ngộ đạo. Cậu bé là nguồn hy vọng của bà, bà thương quý cậu hơn cả thân mình. Thái tử đã ra đi, bây giờ con yêu cũng lìa bỏ, đối với bà thật là trời sầu đất ta cũng có thể thấu cảm với bà Da-du khi trách đức Phật nhẫn tâm, để cho bà chịu nhiều đau khổ quá đáng. Nhưng chơn lý và nhân tình là hai lối trái ngược nhau rất xa, phải hàng phục được tình cảm yếu đuối của thế nhân, mới khế hợp được với chơn lý pháp tánh Tuổi trẻ Nghịch ngợm, mẹ đi xuất giaLa-hầu-la xuất gia làm Sa-di rồi, vương phi Dadu cũng đành chịu, không biết làm sao hơn. Vua Tịnh Phạn thông cảm cho nỗi khổ tâm của bà, bèn đến tìm Phật, yêu cầu một điểm– Bạch Thế Tôn! Mong rằng Ngài quy định từ nay về sau, các người trẻ tuổi muốn xuất gia phải được sự đồng ý cho phép của cha mẹ. Đức Phật hoan hỷ nhận chẳng còn hứng thú gì trên cõi đời này, tất cả đều khô sau, Di mẫu của Phật là phu nhân Kiều-đàm-di xuất gia làm Tỳ-kheo ni, Dadu cũng theo đoàn người nữ họ Thích đến Tỳ-xá-ly xuất gia. Ban đầu, bà không cảm thấy chút gì an lạc khi sống trong Tăng đoàn vắng nhờ đức Thế Tôn cảm hóa, chẳng bao lâu, bà được khai ngộ, khôi phục lại niềm vui, cùng sinh hoạt bình thường, an ổn tự tại trong Phật pháp. Bà rất vui mừng, rất cảm kích đức Thế Phật cũng hoan hỷ, đến lúc ấy Ngài mới hết trách nhiệm với Sa-di La-hầu-la còn quá nhỏ, không thể bắt buộc tu hành giống như người lớn được. Ít lâu sau, khi Tăng đoàn có chế độ Sa-di, Xá-lợi-phất cũng thâu một chú nhỏ là Sa-di Quân-đầu, và hai chú bé thường chơi chung với nhau. Lúc vắng người, cả hai cùng bày những trò chơi trẻ con để đùa cậu bé mới trên mười tuổi, mỗi ngày sống trong Tăng đoàn nghiêm túc, nếu như đó là ý nguyện của chú bé thì không nói chi, như nếu vì hoàn cảnh ép buộc, thì tâm lý sẽ có nhiều thay xuất gia không thấy Tăng đoàn vui vẻ gì, chỉ ngoài mặt không lộ nét bực bội. Một thiếu niên khoảng trên mười lăm tuổi, đối với sự chỉ dạy của người lớn tự nhiên là vâng theo, nhưng dưới khoảng tuổi ấy, theo bản năng tự nhiên của cậu, sẽ có những bất mãn, những tư tưởng phản kháng lại. Những năm còn ban sơ tuổi nhỏ, La-hầu-la cũng như bao trẻ con khác, ưa trêu chọc ấy La-hầu-la ở rừng Ôn Tuyền ngoài thành Vương Xá, có nhiều quan đại thần, trưởng giả, cư sĩ đến hỏi thăm đức Thế Tôn hiện ở đâu. Cậu thường tìm cách nói gạt để trêu ghẹo mọi người. Nếu đức Phật đang ở tinh xá Trúc Lâm, thì La-hầu-la lại nói Ngài ở núi Kỳ-xà-quật. Đức Phật ở tại Kỳ-xà-quật thì cậu nói gạt rằng Phật ở tinh xá Trúc Lâm. Hai nơi ấy cách xa nhau khoảng hai dặm, khiến thiên hạ cứ đi tới đi lui mệt đừ, mà rốt cuộc không gặp được Phật. Khi họ thất vọng quay về, La-hầu-la còn cười nhạo– Các ông không gặp được Phật sao?– Đại đức! Ngài còn cười nhạo bọn tôi nữa ư?– Ai trêu chọc các ông? Tôi lo cho các ông thôi bé La-hầu-la nghịch ngợm không bao giờ nhận lỗi của nhà giàu có, thế lực thì hay ỷ lại vào tiền của và địa vị của cha mẹ, ưa làm chuyện bậy bạ. La hầu-la vốn là cháu vua Tịnh Phạn, con Phật, tuy xuất gia trong Tăng đoàn bình đẳng nhưng vẫn là con nít, chắc cũng được nhiều người sủng ái, nên theo ý tôi, cậu bé có những tập khí kiêu mạn, cũng là tâm lý gạt mọi người một lần, hai lần, thiên hạ còn bị lầm, nhưng sau vài lần mọi người đều biết, và tiếng đồn La-hầu-la nói dối, chọc ghẹo người đến tai Phật. Đức Thế Tôn không vui chút nào. Một hôm Ngài đích thân đến rừng Ôn Tuyền, răn dạy La-hầu-la một Lời Răn của Phật hay bài học rửa chânHôm ấy, đức Thế Tôn đến chỗ ở của La-hầu-la, với dáng hết sức oai nghiêm. La-hầu-la không ngờ vội chỉnh y ra nghinh đón Phật. Đợi cho Thế Tôn an tọa, cậu đem nước đến cho Phật rửa chân. Đức Phật không nói một lời, rửa chân xong, bèn chỉ nước dơ trong chậu bảo La-hầu-la– Này La-hầu-la! Thứ nước dơ bẩn này có đem uống được không?– Bạch Thế Tôn! Nước rửa chân rất dơ, không thể uống được.– Ông cũng giống thứ nước đó! – Đức Thế Tôn quở– Nước vốn trong sạch, rửa chân xong bèn trở nên cáu bẩn, giống như ông vốn là vương tôn, lìa bỏ mọi thứ vinh hoa phú quý tạm bợ của thế gian, xuất gia làm Sa-môn, tuy chưa thọ giới Tỳ-kheo, nhưng ông đã thọ mười giới Sa-di. Ông không tinh tấn tu tập, không để thân tâm thanh tịnh, không giữ miệng cẩn thận lời nói, dối gạt chọc ghẹo người, cấu uế của tam độc đầy dẫy trong tâm ông, giống như nước trong sạch bị dơ bẩn một Phật dậy La Hầu LaNước vốn trong sạch, rửa chân xong bèn trở nên cáu bẩn, giống như ông vốn là vương tôn, lìa bỏ mọi thứ vinh hoa phú quý tạm bợ của thế gian, xuất gia làm Sa-môn, tuy chưa thọ giới Tỳ-kheo, nhưng ông đã thọ mười giới Sa-di. Ông không tinh tấn tu tập, không để thân tâm thanh tịnh, không giữ miệng cẩn thận lời nói, dối gạt chọc ghẹo người, cấu uế của tam độc đầy dẫy trong tâm ông, giống như nước trong sạch bị dơ bẩn một bao giờ đức Thế Tôn nghiêm nghị như vậy. La-hầu-la cúi đầu chẳng dám ngó Phật bảo đem nước đổ đi, cậu bé mới nhúc nhích. Đợi La hầu-la đổ hết nước xong, Phật lại hỏi– La-hầu-la! Ông lấy cái chậu này đựng cơm được không?– Bạch Thế Tôn! Chậu đựng nước rửa chân không thể đem đựng cơm, vì chậu đã dơ, đầy cáu ghét không thể đựng thức ăn được!– Ông cũng giống cái chậu đó. Tuy làm Sa-môn thanh tịnh mà không tu giới định huệ, thân khẩu ý không thanh tịnh, chứa đầy cấu uế không chân thật, thức ăn đạo lý làm sao nhét vào tâm ông ?La-hầu-la sợ toát mồ hôi, xấu hổ muốn độn thổ, phát nguyện từ nay về sau cố gắng sửa đổi tâm tánh. La-hầu-la tuy có bản tính tốt ngoan ngoãn, nhưng phải có pháp thủy của đức Thế Tôn tẩy rửa một phen mới trở nên thanh tịnh vô nhiễm nói xong lấy chân đá nhẹ cái chậu lăn mấy vòng, La-hầu-la thấy thế hoảng sợ. Phật lại hỏi– La-hầu-la! Ông sợ cái chậu này bị đá bể không?– Bạch Thế Tôn! Không ạ. Chậu rửa chân là đồ vật xấu, có bể cũng chẳng sao.– La-hầu-la! Ông không tiếc cái chậu này, giống như mọi người không thương mến ông. Ông xuất gia làm Sa-môn, không giữ oai nghi, nói dối đùa ghẹo, ai mà thương ông được. Không ai quý tiếc gì ông, cho đến lúc ông chết mà ông không hối cải, lại càng chìm trong mê sợ toát mồ hôi, xấu hổ muốn độn thổ, phát nguyện từ nay về sau cố gắng sửa đổi tâm Phật răn dạy xong, lại nói thêm một ví dụ cho La-hầu-la nghe– Đời quá khứ, có một quốc gia nọ nuôi hai con voi lớn dũng mãnh thiện chiến. Mỗi khi nhà vua cử binh ra trận, lại trang bị áo giáp cho chúng. Ngà voi mang giáo nhọn, bên tai giắt kiếm bén, bốn chân đều có dao sáng ngời, sau đuôi lại cột thêm gậy sắt. Tuy mang nhiều vũ khí như thế, nhưng mỗi khi giao chiến chúng đều cuốn vòi dấu kín, vì đó là chỗ nhược, nếu để trúng tên liền chết ngay, vì muốn giữ gìn mạng sống phải giữ kỹ chiếc Ông cũng phải như voi kia giữ kỹ cái vòi, cẩn thận giữ gìn lời nói, mỗi khi mở miệng nói đùa như voi bị thương, huệ mạng của ông sẽ mất, không được mọi người thương mến, không được người trí ưa thích, đến khi lâm chung sẽ bị rơi vào ba đường Thế Tôn dùng hết tình hết lý, khẩn thiết, nghiêm trang răn dạy, mỗi lời mỗi câu đều in sâu vào tâm La-hầu-la, chú bé phát nguyện từ nay sẽ sửa đổi. Như hạt lúa chúng ta tuy xay giã thành hạt gạo, nhưng còn dính bụi cám, phải vo chà sạch sẽ thì gạo trắng mới ra gạo trắng. La-hầu-la tuy có bản tính tốt ngoan ngoãn, nhưng phải có pháp thủy của đức Thế Tôn tẩy rửa một phen mới trở nên thanh tịnh vô nhiễm được. Từ đó La-hầu-la trở thành một người khác.Còn tiếpBài viết “Tôn giả La Hầu La – Sa di đầu tiên của đức Phật là ai?”Thích Nữ Như Đức/ Vườn hoa Phật giáo
cái chết của la hầu la